giải ngân – Kinhtethitruong.net https://kinhtethitruong.net Trang thông tin kinh tế & thị trường Mon, 09 Dec 2024 02:08:01 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhtethitruong/2025/08/kt.svg giải ngân – Kinhtethitruong.net https://kinhtethitruong.net 32 32 Bất thường trong thu và chi ngân sách TP. Hồ Chí Minh, Kiểm toán nhà nước kiến nghị xử lý tài chính gần 3.300 tỷ https://kinhtethitruong.net/bat-thuong-trong-thu-va-chi-ngan-sach-tp-ho-chi-minh-kiem-toan-nha-nuoc-kien-nghi-xu-ly-tai-chinh-gan-3-300-ty/ Thu, 22 Dec 2022 07:45:50 +0000 https://www.kinhtethitruong.net/?p=1555

Qua kiểm toán ngân sách địa phương năm 2021 tại TP. Hồ Chí Minh, Kiểm toán nhà nước khu vực IV kiến nghị xử lý tài chính 3.294,6 tỷ đồng và chỉ rõ những hạn chế trong thu ngân sách, chỉ tiêu thu nợ, giải ngân vốn đầu tư công thấp, thiếu sót trong chi thường xuyên tại địa phương này…

Cụ thể, Kiểm toán nhà nước chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế trong công tác thu ngân sách của TP. Hồ Chí Minh.

ĐỂ LỌT NHIỀU DOANH NGHIỆP KÊ KHAI THUẾ SAI

Kiểm toán nhà nước chỉ rõ, việc xây dựng kế hoạch kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế chưa đảm bảo một số tiêu chí tại ứng dụng phần mềm phân tích thông tin rủi ro của người nộp thuế, quy trình kiểm tra thuế.

Đồng thời, chưa thực hiện đầy đủ quy trình, quy định về áp dụng quản lý rủi ro để phân loại và xếp hạng mức độ rủi ro đối với người nộp thuế phục vụ công tác xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra trong quản lý hoàn thuế.

Một số doanh nghiệp thuộc trường hợp kiểm tra sau hoàn thuế theo quy định chưa được Cục Thuế kiểm tra, thanh tra sau hoàn trong thời hạn 1 năm kể từ ngày có quyết định hoàn thuế; quản lý nợ thuế chưa hoàn thành chỉ tiêu thu nợ được giao.

Đáng nói, về quản lý tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, còn tình trạng các khu đất đang được các tổ chức sử dụng nhưng chưa được xác định nghĩa vụ tài chính, do các sở ngành chưa xác định giá đất; các khu đất chưa có quyết định giao đất, hợp đồng thuê đất; hoặc hết hạn hợp đồng thuê đất đang tạm xác định nghĩa vụ tài chính theo bảng giá đất hàng năm.

Về tuân thủ Luật và chế độ thu tại các đối tượng nộp thuế, kết quả kiểm tra, đối chiếu 281 doanh nghiệp có 239 doanh nghiệp sai sót, chưa kịp thời trong việc chấp hành kê khai, nộp thuế.

 

Qua phần mềm phân tích thông tin rủi ro của người nộp thuế, kiến nghị tăng thu ngân sách nhà nước 276,5 tỷ đồng, giảm thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ 23,9 tỷ đồng, giảm số lỗ doanh nghiệp kê khai 556,6 tỷ đồng.

Ngoài ra, có 9 doanh nghiệp không cung cấp đầy đủ hồ sơ tài liệu phục vụ cho công tác đối chiếu thuế vi phạm quy định tại Điều 68 Luật Kiểm toán nhà nước, 2 doanh nghiệp có hoạt động mua bán xăng dầu nhưng không có giấy phép kinh doanh theo quy định.

Ngoài ra, qua rà soát hồ sơ kê khai giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp theo Nghị định số 92/2021/NĐ-CP của Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của Covid-19, có 352 doanh nghiệp kê khai không đúng đối tượng được giảm theo quy định, số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp bổ sung 7,7 tỷ đồng.

TẠM DỪNG LOẠT DỰ ÁN KHÔNG CÂN ĐỐI ĐƯỢC VỐN 

Về chi đầu tư xây dựng cơ bản, Kiểm toán nhà nước cho rằng về trình tự, thủ tục lập và phân bổ, kế hoạch đầu tư công trung hạn không thể hiện một số chỉ tiêu, không phân loại dự án theo thời gian thực hiện được quy định tại Điều 51 Luật Đầu tư công.

Cùng với đó, chưa tổ chức và thực hiện thẩm định kế hoạch đầu tư công trung hạn của sở, ban, ngành thuộc thẩm quyền theo đúng quy định tại Điều 55 Luật Đầu tư công mà chỉ tổ chức rà soát tham mưu cho UBND thành phố.

“Chưa bố trí vốn thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư đối với dự án trọng điểm, có tính chất kết nối liên vùng theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết 973/NQ-UBTVQH ảnh hưởng đến việc chuẩn bị đầu tư dự án và triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn”, Kiểm toán nhà nước nêu rõ bất cập.

Việc phân bổ và giao kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn đối với 5 dự án trọng điểm sử dụng vốn ODA, 4 dự án thực hiện đầu tư trong kỳ và các dự án chuyển tiếp chưa bảo đảm bố trí đủ vốn để hoàn thành.

 

Việc chấp thuận chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án trong 2 giai đoạn đầu tư công, 2016-2020 và 2021-2025 chưa xác định và cân đối được nguồn vốn, dẫn tới khi xây dựng kế hoạch đầu tư công 2021-2025 có 148 dự án đã có quyết định phê duyệt dự án không cân đối được nguồn vốn nên đề xuất tạm dừng chưa tiếp tục triển khai, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.

Công tác lập, thẩm định, phân bổ và giao kế hoạch đầu tư công năm 2021 chưa tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục lập và thẩm định kế hoạch đầu tư công, thời gian điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn.

Cũng theo Kiểm toán nhà nước, TP. Hồ Chí Minh giao kế hoạch vốn cho 93 dự án nhưng sau đó không cân đối được nguồn vốn phải tạm dừng thực hiện.

Cùng với đó đã phân bổ kế hoạch vốn cho 2.666 dự án trước khi có quyết định điều chỉnh thời gian thực hiện, chưa tuân thủ quy định; hay bố trí kế hoạch vốn năm 2021 cho 1.307 dự án chuyển tiếp từ giai đoạn 2016-2020 có thời gian bố trí vốn quá thời gian quy định.

Như vậy, tổng số vốn kế hoạch đầu tư công của thành phố giải ngân đạt 62%, thấp hơn tỷ lệ bình quân chung cả nước và thấp hơn tỷ lệ các chủ đầu tư đã đăng ký với UBND thành phố.

Trong đó, 414 dự án được bố trí kế hoạch vốn 2.335 tỷ đồng nhưng chưa giải ngân; 73 dự án tỷ lệ giải ngân thấp hơn 30% kế hoạch vốn năm 2021 được giao, số vốn còn lại phải hủy bỏ 8.787 tỷ đồng; 532 dự án có tỷ lệ giải ngân thấp hơn tỷ lệ bình quân chung của thành phố, với giá trị kế hoạch vốn không được giải ngân 9.471 tỷ đồng.

Trong quản lý dự án đầu tư còn thực hiện chưa đúng quy định của Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu và các văn bản pháp luật có liên quan khác. Qua kiểm toán chi tiết các dự án, Kiểm toán nhà nước kiến nghị xử lý tài chính 134,6 tỷ đồng và kiến nghị khác 29,1 tỷ đồng.

Công tác thanh toán, tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng chưa kịp thời thu hồi số vốn đầu tư tạm ứng đã quá thời hạn thu hồi theo quy định; tổng số dư tạm ứng quá hạn đến 31/01/2022 của 173 dự án 1.754,2 tỷ đồng.

BẤT CẬP CHI THƯỜNG XUYÊN

Cũng theo Kiểm toán nhà nước, công tác chi thường xuyên của TP. Hồ Chí Minh còn nhiều bất cập cần khắc phục.

Về công tác lập và giao dự toán, các cấp ngân sách khi giao dự toán chưa giảm trừ dự toán chi hoạt động đối với số lượng biên chế giảm; giao dự toán kinh phí chi tăng thu nhập theo Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐND của HĐND thành phố chưa theo thứ tự ưu tiên nguồn kinh phí thực hiện theo quy định.

Trong thực hiện tổ chức chính quyền đô thị, công tác quản lý, điều hành địa phương còn một số vướng mắc.

Trong thực hiện cơ chế tài chính đặc thù theo Nghị quyết 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội, đến nay một số nội dung triển khai chậm so với kế hoạch, chưa đạt được mục tiêu đề ra và trong điều kiện thành phố đã thực hiện tổ chức chính quyền đô thị, cần tiếp tục kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết mới phù hợp với cơ chế chính quyền đô thị.

Nguồn cải cách tiền lương ngân sách bố trí năm 2021 còn một số tồn tại. Đó là: thành phố giao dự toán cho các đơn vị dự toán và các quận, huyện cân đối chi thường xuyên và chi tăng thu nhập theo Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐND chưa theo thứ tự ưu tiên nguồn kinh phí thực hiện theo quy định.

“Qua kiểm toán, căn cứ theo số liệu tại ngày 31/7/2022 xác định cấp thừa nguồn cải cách tiền lương các quận, huyện là 1.938 tỷ đồng; chưa thu hồi kịp thời nguồn 10% tiết kiệm của các đơn vị dự toán về ngân sách các cấp theo quy định tại Thông tư số 109/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính”, báo cáo Kiểm toán Nhà nước nêu rõ.

Lĩnh vực chi các dịch vụ công ích đô thị còn tồn tại, hạn chế, hầu hết các quận, huyện được kiểm toán chưa triển khai thực hiện hoặc thực hiện chưa phù hợp; chưa thực hiện đầu thầu hoặc thực hiện đấu thầu chậm so với chủ trương của thành phố và quy định của Chính phủ; xây đơn giá dự toán để thực hiện đấu thầu chưa phù hợp quy định.

Về nợ chính quyền địa phương, giải ngân vốn ODA vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ giải ngân trong năm 2021 là 1.339,7 tỷ đồng, chỉ đạt 15% tổng kế hoạch vốn đầu tư giao trong năm. Qua kiểm toán tổng hợp, còn tồn tại dự án có Hiệp định vay và hợp đồng vay lại đã được ký kết từ các năm trước nhưng chưa thực hiện rút vốn theo kế hoạch giải ngân, lũy kế đến thời điểm 31/12/2021, ngân sách Thành phố đã trả các khoản phí cam kết 42,9 tỷ đồng.

Về kế toán và quyết toán ngân sách, qua kiểm toán cho thấy, TP. Hồ Chí Minh vẫn tồn đọng số dư tạm ứng ngoài dự toán bằng lệnh chi tiền, chưa thu hồi kịp thời theo quy định tại  Điều 6 Luật Ngân sách nhà nước 22.603,8 tỷ đồng.

Về thực hiện chính sách xã hội hoá lĩnh vực giáo dục, dạy nghề trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015-2021, thành phố chưa xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho mục đích xã hội hóa; chưa báo cáo tình hình thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển xã hội hoá lĩnh vực giáo dục của địa phương và gửi các Bộ quản lý chuyên ngành để tổng hợp theo quy định.

Thành phố không có danh mục xã hội hoá để công bố rộng rãi trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia danh mục các dự án kêu gọi xã hội hoá, làm cơ sở xác định số lượng nhà đầu tư quan tâm thực hiện dự án như quy định…

]]>
Thách thức hấp thụ hơn 700 nghìn tỷ vốn đầu tư công trong năm 2023 https://kinhtethitruong.net/thach-thuc-hap-thu-hon-700-nghin-ty-von-dau-tu-cong-trong-nam-2023/ Thu, 22 Dec 2022 07:45:30 +0000 https://www.kinhtethitruong.net/?p=1556

Quốc hội đã thông qua kế hoạch đầu tư công năm 2023 với tổng số vốn trên 700.000 tỷ đồng, tăng khoảng 25% (khoảng 140.000 tỷ đồng) so với kế hoạch năm 2022 và tăng khoảng 260.000 tỷ đồng so với kế hoạch năm 2021 (năm đầu tiên của kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025). Nếu không có giải pháp căn cơ ngay từ bây giờ, sẽ rất khó để số vốn trên được hấp thụ hết…

Năm 2023 cũng là năm phải giải ngân toàn bộ số vốn thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế.

Trong khi đó, tỷ lệ giải ngân đầu tư công các năm qua rất bấp bênh. Đây không phải là vấn đề mới mà đã bàn nhiều, nói nhiều nhưng chưa giải quyết được căn cơ.

Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2022, Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Duy Hưng dẫn chứng tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thấp qua các năm: Năm 2017, đầu tư công giải ngân đạt 73%, năm 2018 tỷ lệ này giảm xuống 66%, năm 2019 là 67%, năm 2020 là 82%, năm 2021 là 72%, 11 tháng năm 2022 mới đạt trên 53,8%.

Theo ông Nguyễn Duy Hưng, các bộ, ngành, địa phương có báo cáo Chính phủ, trong đó nêu 25 – 30 khó khăn, vướng mắc liên quan đến giải ngân vốn đầu tư công.

Trong đó, chia ra 3 nhóm lĩnh vực.

Nhóm thứ nhất là thể chế, pháp luật chính sách thiếu đồng bộ, quy định phức tạp về ngân sách, đất đai, đấu thầu, môi trường, giải phóng mặt bằng…

Nhóm thứ hai là tổ chức thực thi, cùng hệ thống pháp luật như nhau, nhưng có tỉnh rất tốt, có bộ, ngành, địa phương còn kém. Chẳng hạn như: Thanh tra Chính phủ có tỷ lệ giải ngân đạt 100%, Tiền Giang đạt 82%… trong khi đó có 12 bộ và 1 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt rất thấp (hơn 30%). Thực tế này cho thấy, quá trình tổ chức thực thi của các cơ quan cũng là một trở ngại, cần sự quyết tâm vào cuộc trong việc quyết liệt triển khai đầu tư công.

Nhóm thứ ba là các yếu tố khách quan, đặc thù trong năm 2022 xuất hiện ngoài dự báo như giá nguyên vật liệu, cước phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng cao…

Đưa ra giải pháp tổng thể chung, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho rằng các bộ, ngành, địa phương trong thời gian tới cần làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, kiểm tra, rà soát từng dự án bố trí kế hoạch vốn năm 2023, đặc biệt là các dự án khởi công mới, lựa chọn dự án đủ thủ tục đầu tư, đáp ứng điều kiện bố trí vốn theo quy định, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi, khả năng triển khai thực hiện dự án. Đồng thời, khẩn trương phân bổ chi tiết kế hoạch vốn năm 2023 cho các nhiệm vụ, dự án trước ngày 31/12/2022 để có thể giải ngân từ ngày đầu, tháng đầu của năm 2023.

Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong đầu tư công, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan, xử lý nghiêm vi phạm theo quy định…

Bên cạnh đó, các chuyên gia đề xuất Chính phủ nhanh chóng chỉ đạo bộ/ngành liên quan nhanh chóng rà soát phân loại các đơn giá, định mức để có kế hoạch bổ sung ngay trong quý 1/2023 cho kịp triển khai các dự án hiện nay. Bổ sung ngay các định mức chuyên ngành giao thông vào hệ thống định mức xây dựng làm cơ sở áp dụng cho các gói hạ tầng.

Cần xây dựng quy trình phân cấp, phân quyền cụ thể và quy định rõ ràng cho các ban quản lý dự án, chủ đầu tư để xử lý việc điều chỉnh, giải quyết các việc phát sinh, điều chỉnh các gói thầu song song với việc tập trung cải thiện chất lượng hồ sơ khảo sát, thiết kế, dự toán của các gói thầu.

Cùng đó, nghiên cứu ban hành cơ chế tổng thầu, cơ chế liên danh, cơ chế xét thầu phù hợp cho các gói thầu xây dựng hạ tầng lớn để tập hợp được sức mạnh của các nhà thầu Việt Nam.

]]>