nhân lực – Kinhtethitruong.net https://kinhtethitruong.net Trang thông tin kinh tế & thị trường Wed, 06 Aug 2025 22:45:47 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhtethitruong/2025/08/kt.svg nhân lực – Kinhtethitruong.net https://kinhtethitruong.net 32 32 Ngành nông nghiệp khát nhân lực chất lượng cao https://kinhtethitruong.net/nganh-nong-nghiep-khat-nhan-luc-chat-luong-cao/ Wed, 06 Aug 2025 22:45:44 +0000 https://kinhtethitruong.net/nganh-nong-nghiep-khat-nhan-luc-chat-luong-cao/

Ngành nông nghiệp hiện đang đứng trước một thách thức lớn trong việc thu hút và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Dữ liệu mới nhất từ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho thấy, tỷ lệ lao động có bằng cấp trong ngành nông nghiệp chỉ tăng nhẹ từ 4,1% vào năm 2015 lên 6,1% vào năm 2025. Sự gia tăng này, mặc dù tích cực, vẫn còn rất khiêm tốn và phản ánh sự phát triển chậm chạp trong việc nâng cao trình độ chuyên môn của lao động ngành nông nghiệp.

Một vấn đề khác đang làm trầm trọng thêm thách thức về nhân lực chất lượng cao trong ngành nông nghiệp là sự suy giảm trong giáo dục đào tạo. Trong vòng một thập kỷ qua, số lượng người theo học ngành nông nghiệp đã giảm đáng kể, mức giảm lên đến 31,1%. Xu hướng này không chỉ thể hiện sự mất hứng thú của giới trẻ với ngành nông nghiệp mà còn đặt ra thách thức lớn về việc đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành này trong tương lai.

Thách thức về nhân lực chất lượng cao trong ngành nông nghiệp trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết khi nhu cầu về thực phẩm và sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng cao. Trong bối cảnh dân số thế giới dự kiến tiếp tục tăng và biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, việc đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thực phẩm và duy trì sản xuất nông nghiệp bền vững là vô cùng quan trọng.

Để giải quyết thách thức này, cần có những giải pháp toàn diện và đột phá nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của lao động ngành nông nghiệp và thu hút nhân lực chất lượng cao. Đầu tiên, cần cải thiện chương trình giáo dục và đào tạo ngành nông nghiệp, đảm bảo rằng sinh viên được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của ngành. Thứ hai, cần có chính sách hỗ trợ và khuyến khích để thu hút sinh viên giỏi vào ngành nông nghiệp. Cuối cùng, việc ứng dụng công nghệ và đổi mới trong sản xuất nông nghiệp cũng cần được đẩy mạnh, không chỉ để tăng hiệu suất mà còn để tạo ra môi trường làm việc hấp dẫn và hiện đại hơn cho lao động ngành nông nghiệp.

Tóm lại, ngành nông nghiệp đang đứng trước thách thức lớn về thu hút và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Việc giải quyết thách thức này đòi hỏi sự quan tâm và vào cuộc của các cấp chính quyền, các tổ chức và cả xã hội. Bằng cách cải thiện giáo dục đào tạo, thu hút nhân lực chất lượng cao và ứng dụng công nghệ, chúng ta có thể xây dựng một ngành nông nghiệp bền vững và đáp ứng nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng của xã hội. Hãy cùng nhau nỗ lực để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại và đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước.

]]>
Bệnh án điện tử: Khó khăn tài chính, nhân lực và hạ tầng kỹ thuật cần hỗ trợ https://kinhtethitruong.net/benh-an-dien-tu-kho-khan-tai-chinh-nhan-luc-va-ha-tang-ky-thuat-can-ho-tro/ Fri, 01 Aug 2025 01:37:22 +0000 https://kinhtethitruong.net/benh-an-dien-tu-kho-khan-tai-chinh-nhan-luc-va-ha-tang-ky-thuat-can-ho-tro/

Việc triển khai bệnh án điện tử được xem là một bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển đổi số y tế, góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cũng như quản lý y tế. Tuy nhiên, quá trình thực hiện đang gặp phải nhiều khó khăn về tài chính, nhân lực chuyên môn và hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là tại các bệnh viện tuyến huyện. Cử tri thành phố Hải Phòng đã kiến nghị Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ về nguồn lực và kỹ thuật để giúp các bệnh viện tuyến huyện triển khai hiệu quả bệnh án điện tử.

Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đã có phản hồi rằng Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy chuyển đổi số y tế. Các văn bản này bao gồm Nghị quyết 193/2025, Nghị định 88/2025, Chỉ thị 07, đặt nền tảng cho chuyển đổi số y tế, hướng tới xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh dựa trên công nghệ số.

Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 1150 về kế hoạch triển khai hồ sơ bệnh án điện tử, giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc giải quyết các vấn đề về chi phí dịch vụ khám, chữa bệnh trên hệ thống RIS-PACS. Thông tư 13/2025 của Bộ Y tế cũng đã hướng dẫn kỹ thuật triển khai bệnh án điện tử, cung cấp căn cứ pháp lý cho các cơ sở y tế thực hiện.

Bộ Khoa học và Công nghệ cũng xác định y tế là lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số, đề xuất đưa vào chương trình Chuyển đổi số quốc gia, hỗ trợ khám, chữa bệnh từ xa và đơn thuốc điện tử. Ngày 13-5, Bộ Y tế đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định 102/2025 quy định về quản lý dữ liệu y tế nhằm phát triển về hạ tầng dữ liệu y tế.

Đến ngày 22-7, cả nước mới có 283 trong tổng số hơn 1.500 cơ sở y tế đã triển khai bệnh án điện tử. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 07, giao Bộ Y tế chỉ đạo, đôn đốc 100% các bệnh viện trên toàn quốc phải triển khai bệnh án điện tử, hoàn thành trong tháng 9-2025. Với khối lượng công việc nhiều, phức tạp, đòi hỏi các đơn vị chức năng, bệnh viện phải quyết liệt để hoàn thành đúng lộ trình đề ra.

]]>
Việt Nam Phát triển Trí tuệ Nhân tạo: Lộ trình và Thách thức https://kinhtethitruong.net/viet-nam-phat-trien-tri-tue-nhan-tao-lo-trinh-va-thach-thuc/ Fri, 25 Jul 2025 21:57:03 +0000 https://kinhtethitruong.net/viet-nam-phat-trien-tri-tue-nhan-tao-lo-trinh-va-thach-thuc/

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang nổi lên như một điểm sáng trong lĩnh vực công nghệ, với tiềm năng phát triển vượt xa tưởng tượng. Tuy nhiên, để đạt được sự phát triển bền vững, cần có một lộ trình cụ thể theo từng giai đoạn, ưu tiên giải quyết các vấn đề cốt lõi trước khi bước vào giai đoạn tăng tốc.

Chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để tạo động lực tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Mới đây, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số, tạo ra một sân chơi minh bạch và hoàn thiện khung pháp lý cho ngành công nghiệp mới nổi này.

Ông Cheng Xueli chia sẻ tại sự kiện ngày 18/07.
Ông Cheng Xueli chia sẻ tại sự kiện ngày 18/07.

Các chuyên gia đánh giá cao các động thái quyết liệt của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy công nghệ sáng tạo và ứng dụng AI vào mọi lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, trên hành trình đưa AI vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vẫn còn những thách thức cần được giải quyết.

TS. Trần Quý, Viện trưởng VIDE.
TS. Trần Quý, Viện trưởng VIDE.

Theo TS. Trần Quý, Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế Số Việt Nam (VIDE), có 4 thách thức chính kìm hãm sự phát triển của AI tại Việt Nam, bao gồm: ‘cơn khát’ dữ liệu chất lượng cao, khủng hoảng nguồn nhân lực, chi phí đầu tư và sự mơ hồ về chiến lược, cũng như rào cản pháp lý, đạo đức và an ninh.

Để giải quyết những thách thức này, TS. Quý đề xuất một lộ trình phát triển AI với mục tiêu ‘xây nền móng trước, tăng tốc sau’, bao gồm hai giai đoạn. Trong giai đoạn hiện tại, cần tập trung giải quyết dứt điểm 4 nút thắt trên, ưu tiên hàng đầu là giải quyết khủng hoảng nhân lực và dữ liệu.

Về nhân lực, cần một chiến lược ‘ba chân kiềng’ đồng bộ, bao gồm cải cách đào tạo trong các trường đại học, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lớn và mở các chương trình đào tạo quy mô lớn. Về dữ liệu, cần khởi động chương trình quốc gia về số hóa và chuẩn hóa dữ liệu trong các lĩnh vực công quan trọng.

Đến giai đoạn 2 (2026-2030), mới bắt đầu tăng tốc và chuyên môn hóa, tập trung vào phát triển các ứng dụng AI đẳng cấp thế giới trong các lĩnh vực có lợi thế. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ có mục tiêu cho các doanh nghiệp AI tiềm năng nhất, giúp họ trở thành các thương hiệu uy tín trong khu vực.

Về phía doanh nghiệp, ông Cheng Xueli, Founder Quỹ đầu tư Hanfu và Công ty Công nghệ Zhiji, khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam cần không ngừng học hỏi, duy trì tinh thần đổi mới sáng tạo và đặc biệt là mở rộng tầm nhìn ra thị trường quốc tế.

]]>
Việt Nam hợp tác với Boeing phát triển hệ thống quản lý không lưu https://kinhtethitruong.net/viet-nam-hop-tac-voi-boeing-phat-trien-he-thong-quan-ly-khong-luu/ Fri, 25 Jul 2025 16:25:12 +0000 https://kinhtethitruong.net/viet-nam-hop-tac-voi-boeing-phat-trien-he-thong-quan-ly-khong-luu/

Ngành hàng không Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng ấn tượng trong giai đoạn 2025-2030. Theo báo cáo của Boeing, tốc độ tăng trưởng của ngành hàng không Việt Nam sẽ vào khoảng 8,1%/năm trong giai đoạn này. Sự tăng trưởng này sẽ kéo theo nhu cầu về máy bay, nhân lực ngành hàng không và quản lý không lưu tăng cao.

Với tốc độ tăng trưởng ấn tượng như vậy, số lượng hành khách đi đến, đi từ và trong nội bộ Việt Nam dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong vòng thập kỷ tới. Ước tính, sẽ có hơn 75 triệu lượt khách/năm trong giai đoạn 2026-2035. Điều này đòi hỏi sự phát triển và nâng cao năng lực của hệ thống quản lý không lưu để đảm bảo an toàn và hiệu quả.

Để đáp ứng nhu cầu này, Boeing và Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam (VATM) đã ký kết Biên bản ghi nhớ (MOU) về việc nghiên cứu triển khai các sáng kiến chiến lược để nâng cao an toàn và hiệu quả của hệ thống quản lý không lưu của Việt Nam. Biên bản ghi nhớ này tập trung vào bốn trụ cột hợp tác chiến lược, bao gồm quản lý vùng trời, hệ thống thông tin toàn hệ thống, ứng dụng công nghệ thế hệ mới và đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

Ông Lê Hoàng Minh, Chủ tịch Hội đồng thành viên VATM, cho biết việc hợp tác với Boeing sẽ giúp VATM nâng cao năng lực và hiệu quả của hệ thống quản lý không lưu. Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường hàng không đang tăng trưởng mạnh mẽ và dự án trọng điểm là Cảng Hàng không quốc tế Long Thành dự kiến đưa vào khai thác vào cuối năm nay, sự hợp tác này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho ngành hàng không Việt Nam.

Sự hợp tác giữa Boeing và VATM không chỉ giúp nâng cao năng lực quản lý không lưu mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành hàng không Việt Nam. Thông qua việc ứng dụng công nghệ mới và đào tạo nhân lực, ngành hàng không Việt Nam sẽ có thể đáp ứng được nhu cầu tăng cao và đảm bảo an toàn cho các hoạt động bay.

Trước những thách thức và cơ hội của sự tăng trưởng, ngành hàng không Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ để nâng cao năng lực quản lý không lưu. Việc ký kết MOU giữa Boeing và VATM là một bước tiến quan trọng trong việc hiện thực hóa mục tiêu này, đồng thời thể hiện cam kết của các bên trong việc phát triển ngành hàng không bền vững và an toàn.

Nhìn chung, sự tăng trưởng của ngành hàng không Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị và sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ. Với sự hợp tác giữa Boeing và VATM, ngành hàng không Việt Nam có thể kỳ vọng vào một tương lai phát triển bền vững và an toàn hơn.

]]>
Nghiên cứu giải pháp cải thiện Chỉ số nguồn nhân lực – HCI https://kinhtethitruong.net/nghien-cuu-giai-phap-cai-thien-chi-so-nguon-nhan-luc-hci/ Fri, 23 Dec 2022 03:02:16 +0000 https://www.kinhtethitruong.net/?p=1728

Việc nghiên cứu, cải thiện chỉ số HCI mang ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh toàn ngành giáo dục quyết tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần đưa Việt Nam thành công trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá…

Ngày 21/12, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc chủ trì Hội thảo khoa học Chỉ số nguồn nhân lực-HCI và các giải pháp cải thiện. Hội thảo do Uỷ ban về giáo dục và phát triển nhân lực thuộc Hội đồng Quốc gia về Phát triển bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.

Thích ứng với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là mục tiêu đã được xác định ở Việt Nam. Việt Nam đang hướng tới xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số. Ngày 7/2/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 17/NQCP về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 – 2020 định hướng đến 2025.

Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn theo đuổi thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 và nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngày 10/1/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022, trong đó xây dựng Chính phủ điện tử là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn hiện nay.

Chỉ số Chính phủ điện tử được các cơ quan Liên hợp quốc thiết kế nhằm đo lường mức độ xây dựng Chính phủ điện tử của các quốc gia trên thế giới và hàng năm Liên hợp quốc thực hiện xếp hạng các quốc gia dựa trên Bộ chỉ số này. Bộ chỉ số Chính phủ điện tử gồm ba chỉ số thành phần: chỉ số dịch vụ công trực tuyến (OSI); chỉ số hạ tầng viễn thông (TII) và chỉ số nguồn nhân lực (HCI).

Bộ Giáo dục Đào tạo được giao trách nhiệm theo dõi và thực hiện các giải pháp để cải thiện chỉ số nguồn nhân lực (HCI), góp phần cải thiện chỉ số Chính phủ điện tử của Việt Nam trong bảng xếp hạng quốc tế.

Các tiêu chí đánh giá chỉ số HCI là một hỗn hợp của 4 chỉ số: Tỷ lệ người lớn biết đọc, biết viết (Adult literacy); Tỷ lệ nhập học chung (Gross enrolment ratio – GER); Số năm đi học kỳ vọng (Expected years of schooling); Số năm học bình quân (Mean years of schooling).

Về tầm quan trọng, HCI chỉ ra các yếu tố cần quan tâm trong việc tiếp tục cải thiện trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam trong thế kỷ 21; cung cấp động lực cho Chính phủ Việt Nam không chỉ đầu tư nhiều hơn vào giáo dục mà còn đầu tư tốt hơn vào phát triển nguồn nhân lực một cách thực chất để nhân lực của thế hệ tiếp theo thực sự có chất lượng.

Hội thảo đã nghe nhiều tham luận cũng như giải pháp của các đại biểu tham gia góp phần cải thiện chỉ số HCI. Trong đó, chú trọng vào các giải pháp tăng tỷ lệ nhập học, tăng số năm đi học bình quân, tăng số năm đi học kỳ vọng, tăng số sinh viên đại học,…

Đánh giá cao trao đổi của các đại biểu, Thứ trưởng cho biết đây sẽ là cơ sở để Bộ Giáo dục Đào tạo tiếp tục mở rộng nghiên cứu, cải thiện chỉ số HCI, một chỉ số đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ Liên hợp quốc cũng như Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành tại Việt Nam.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc đề nghị các đơn vị liên quan tiếp tục cập nhật, rà soát lại các thống kê, số liệu về giáo dục, đảm bảo theo  thông lệ quốc tế. Cùng với đó, tích cực phối hợp với các cơ quan đo lường trong nước và quốc tế, giải quyết các vấn đề liên quan của chỉ số HCI.

Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang phát triển theo hướng toàn diện nhằm phát huy tối đa tiềm năng, khả năng sáng tạo, năng lực riêng của mỗi con người, bám sát việc thực hiện Nghị quyết 29 NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.

Nhấn mạnh giáo dục phải phát triển song hành với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc khẳng định việc nghiên cứu, cải thiện chỉ số HCI mang ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh toàn ngành giáo dục quyết tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần đưa Việt Nam thành công trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và xác định tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

]]>
Nền kinh tế kỹ thuật số và vấn đề đào tạo lại người lao động https://kinhtethitruong.net/nen-kinh-te-ky-thuat-so-va-van-de-dao-tao-lai-nguoi-lao-dong/ Thu, 22 Dec 2022 07:57:02 +0000 https://www.kinhtethitruong.net/?p=1488

Nền kinh tế kỹ thuật số đang gây ra những chuyển dịch kinh tế – xã hội lớn trong lĩnh vực quan hệ lao động, làm thay đổi loại hình hoạt động nghề nghiệp và bản chất của chính lao động. Tính chất mới của lao động gắn liền với việc nâng cao trình độ, không ngừng rèn luyện và phát triển khả năng sáng tạo…

Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế kỹ thuật số liên quan đến sự thay đổi đáng kể trong quan hệ lao động, sự xuất hiện của “quan hệ khoảng cách” giữa người lao động và người sử dụng lao động của họ. Thị trường lao động kích thích việc tạo ra các công việc mới có hiệu suất cao bằng cách tăng tỷ trọng của các hình thức việc làm không điển hình đang ngày càng trở nên có nhu cầu.

Nền kinh tế kỹ thuật số và vấn đề đào tạo lại người lao động - Ảnh 1

Sự phát triển của thị trường lao động dựa trên công nghệ kỹ thuật số dẫn đến hiện đại hóa các quan hệ lao động bằng cách tạo cho chúng các hình thức mạng lưới, ví dụ, một dịch giả đã hoàn thành đơn đặt hàng cho nhà xuất bản có thể gửi văn bản hoàn chỉnh qua e-mail.

NỀN KINH TẾ KỸ THUẬT SỐ ĐÒI HỎI KỸ NĂNG VÀ NĂNG LỰC MỚI

Trong nền kinh tế kỹ thuật số, một trong những  lĩnh vực chính quyết định nội dung của tổ chức lao động kỹ thuật số là đào tạo các đại lý lao động để làm việc trong không gian kỹ thuật số. Trong nền kinh tế số, quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động là quan hệ gián tiếp thông qua các đại lý lao động.

Thí dụ: khi đi xe GrabBike, mối quan hệ giữa người đi xe với lái xe thông qua trung tâm điều khiển (đại lý lao động). Grab ứng dụng vận chuyển đặt trên điện thoại di động, người gọi xe có thể dùng ứng dụng này để đặt xe (xe máy, ô tô, taxi, giao hàng, thức ăn). Người dùng nhập điểm đón và điểm đến, ứng dụng sẽ hiện cước phí, tiếp đó là đặt xe và đợi tài xế đến đón.

Nếu trong nền kinh tế truyền thống tồn tại các mối quan hệ kinh tế theo chiều dọc “quản lý – phục tùng” giữa nhân viên và người quản lý, thì trong lĩnh vực kỹ thuật số, người quản lý không còn là ông chủ nữa mà là người điều phối công việc của những người ở cách nhau rất xa.

Theo đó, liên kết dọc được thay thế bằng liên kết ngang. Một hệ quả của việc này là sự phân cấp trong hoạt động lao động. Sự phụ thuộc của người lao động vào người quản lý của công ty bị suy yếu đáng kể.

Trong nền kinh tế kỹ thuật số, chỉ cần có máy tính và truy cập Internet là đủ để một chuyên gia có trình độ cao trở nên tương đối độc lập và thậm chí có cơ hội hình thành danh mục đơn đặt hàng, thống nhất về phạm vi và thời gian làm việc, cũng như số lượng thù lao của chính họ.

Sự phát triển của quan hệ lao động trong nền kinh tế kỹ thuật số góp phần thay thế các nhân viên biên chế bởi những người thừa hành tạm thời. Riêng tại Mỹ, năm 2018, có 56,7 triệu người làm việc tự do, chiếm 36% dân số lao động cả nước.

Một trong những loại hình việc làm phổ biến nhất trong nền kinh tế kỹ thuật số là làm việc tại nhà, với đặc điểm chính là thực hiện công việc tại nhà thay vì di chuyển đến văn phòng trong ngày làm việc. Ngoài ra, làm việc trong các kỳ nghỉ (trên tàu, trên máy bay), làm việc cho chủ lao động nước ngoài mà không ra nước ngoài (ví dụ, việc làm tại nhà cho các lập trình viên nước ngoài)…. là phổ biến.

Các công ty lớn của Hoa Kỳ, bao gồm Amazon, IBM, Apple, Wells Fargo và những công ty khác, liên tục cung cấp công việc từ xa bán thời gian hoặc toàn thời gian.

Dữ liệu mới nhất của Mỹ cho thấy lĩnh vực tài chính mang lại sự linh hoạt trong công việc nhất, với 57% người lao động trong ngành này có thể làm việc tại nhà. Ngoài ra, gần một nửa số người làm việc trong các dịch vụ chuyên nghiệp, kinh doanh và thông tin có thể làm việc từ xa.

Nền kinh tế kỹ thuật số đòi hỏi những kỹ năng và năng lực mới. Đối với các nhà tuyển dụng, những kỹ năng được gọi là kỹ năng mềm hiện đang trở thành ưu tiên của các chuyên gia trẻ: phẩm chất cá nhân và kỹ năng xã hội, ví dụ như khả năng làm việc theo nhóm, ham học hỏi, sáng kiến, tư duy phản biện, khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp, tương tác với những người khác nhau và ưu tiên chính xác…

Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 51 phát hành ngày 19-12-2022. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây: 

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Nền kinh tế kỹ thuật số và vấn đề đào tạo lại người lao động - Ảnh 2
]]>
Chi phí lao động cạnh tranh chưa hẳn thu hút nhà đầu tư nước ngoài https://kinhtethitruong.net/chi-phi-lao-dong-canh-tranh-chua-han-thu-hut-nha-dau-tu-nuoc-ngoai/ Thu, 22 Dec 2022 07:39:45 +0000 https://www.kinhtethitruong.net/?p=1599

Mức thu nhập trung bình tháng của lao động Việt Nam hiện là 275 USD (hơn 6,5 triệu đồng) được đánh giá là mức chi phí lao động tương đối hấp dẫn, nhưng với trình độ kỹ năng thấp chưa hẳn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài…

Thông tin được chia sẻ tại Báo cáo Tổng chỉ số nguồn nhân lực 2022 do ManpowerGroup vừa phát hành. Theo báo cáo này, Việt Nam xếp thứ 47/60 thị trường lao động toàn cầu, và xếp cuối cùng trong số 11 quốc gia thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 10 thị trường lao động hàng đầu thế giới năm 2022 bao gồm: Mỹ, Singapore, Canada, Ireland, Australia, Anh, Israel, Philippines, Mexico và Malaysia.

Báo cáo tiết lộ mức thu nhập trung bình tháng của người lao động Việt Nam hiện là 275 USD, tương đương với 6.545.000 đồng. Đây là mức chi phí lao động tương đối hấp dẫn và đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng lao động, góp phần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, nếu so sánh giữa hai thị trường, một là Việt Nam với chi phí rẻ (mức lương trung bình tháng của lao động là 275 USD) nhưng trình độ kỹ năng lao động thấp (11,6% lao động tay nghề cao) và một thị trường khác ví dụ, Philippines với mức lương trung bình tháng của lao động nhỉnh hơn một chút (283 USD) nhưng trình độ kỹ năng cao hơn hẳn (18,5% lao động tay nghề cao), thì rõ ràng lao động của chúng ta kém hấp dẫn nhà đầu tư hơn.

Báo cáo cũng đánh giá Việt Nam có nguồn cung lao động dồi dào nhưng còn hạn chế về trình độ kỹ năng. Cụ thể, Việt Nam hiện có một lực lượng lao động với khoảng 50,74 triệu người trong độ tuổi lao động. Những người thuộc thế hệ Y và thế hệ Z chiếm gần 1/3 lực lượng lao động trong nước – khoảng 65%. Việc sở hữu một nguồn cung lao động trẻ và dồi dào khi nhiều quốc gia đang phải đau đầu giải quyết vấn đề già hóa dân số là một trong những lý do khiến thị trường Việt nam được đánh giá cao bởi các nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy nhiên, trình độ kỹ năng là một trong những điểm lao động Việt Nam cần khắc phục để vươn lên sánh ngang với các thị trường khác. Mặc dù có tỷ lệ phổ cập giáo dục cao (khoảng 88%), số người lao động có trình độ tay nghề hay chuyên môn cao chỉ chiếm khoảng 11,67%, gần như không đổi so với 3 năm trước.

Các kỹ năng mềm, trong đó có khả năng ngoại ngữ đang ngày càng đóng vai trò quan trọng ở hầu hết các ngành nghề, ngay cả ở những lĩnh vực vốn thiên về kỹ thuật như ngành sản xuất. Bên cạnh tiếng Anh, một số ngoại ngữ khác như tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn được không ít đơn vị tìm kiếm.

Theo báo cáo Tổng chỉ số nguồn nhân lực Việt Nam 2022, tỷ lệ lao động Việt Nam đủ trình độ tiếng Anh để làm việc chỉ chiếm 5% lực lượng lao động. Tỷ lệ này là khá thấp so với các quốc gia không nói tiếng Anh khác trong khu vực như Indonesia (10%), Malaysia (21%), Thái Lan (27%).

Mặc dù vậy, báo cáo cũng chỉ ra rằng hiện các quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam về việc quản lý và sử dụng lao động tương đối linh hoạt. Việt Nam cho phép doanh nghiệp được ký hợp đồng lao động với thời hạn tối đa là 36 tháng, đồng thời doanh nghiệp hoàn toàn có thể ký kết hợp tác và sử dụng nhà thầu phụ.

Chính phủ Việt Nam đang ngày càng tạo điều kiện cho các hoạt động giao thương quốc tế, thông qua việc đẩy mạnh các chính sách mở cửa. Hiện nay Việt Nam đang miễn thị thực khi nhập cảnh cho 63 quốc gia, tăng thêm 15 nước so với năm 2021. Chính sách này tạo điều kiện lớn cho các doanh nghiệp nước ngoài có dự định hoạt động tại Việt Nam, cũng như những công ty trong nước muốn mời chuyên gia ngoại quốc về làm việc.

 

Báo cáo Tổng chỉ số nguồn nhân lực – Total Workforce Index­TM  đo lường một cách tương đối mức độ dễ dàng của việc tìm nguồn cung ứng, tuyển dụng và duy trì lực lượng lao động trong các thị trường lao động cạnh tranh trên khắp thế giới. Báo cáo này tổng hợp hơn 200 yếu tố chính liên quan đến nguồn cung, hiệu quả chi phí, pháp lý và năng suất của lực lượng lao động ở mỗi thị trường.

#box1671598187013{background-color:#d1e5d3}

]]>