Thị trường nội địa – Kinhtethitruong.net https://kinhtethitruong.net Trang thông tin kinh tế & thị trường Wed, 17 Sep 2025 23:12:57 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhtethitruong/2025/08/kt.svg Thị trường nội địa – Kinhtethitruong.net https://kinhtethitruong.net 32 32 Thị trường nội địa – Động lực tăng trưởng bền vững cho ngành thủy sản https://kinhtethitruong.net/thi-truong-noi-dia-dong-luc-tang-truong-ben-vung-cho-nganh-thuy-san/ Wed, 17 Sep 2025 23:12:52 +0000 https://kinhtethitruong.net/thi-truong-noi-dia-dong-luc-tang-truong-ben-vung-cho-nganh-thuy-san/

Ngày 1/8/2025, tại TP.HCM, Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) đã phối hợp với Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) và Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam tổ chức Hội nghị Thúc đẩy Tiêu thụ Thủy sản Nội địa. Sự kiện này quy tụ đại diện từ Sở Công Thương các tỉnh thành phía Nam, hơn 10 doanh nghiệp phân phối lớn và trên 30 doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản hàng đầu. Mục tiêu của hội nghị là tìm kiếm cơ hội hợp tác, liên kết và xúc tiến thương mại, hướng tới mở rộng thị trường nội địa, kích cầu tiêu dùng và hưởng ứng Cuộc vận động ‘Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’.

Thị trường nội địa được coi là động lực tăng trưởng bền vững cho ngành thủy sản Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh xuất khẩu thủy sản đang đối mặt với nhiều thách thức. Ông Trần Hữu Linh, Cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, nhấn mạnh vai trò chiến lược của thị trường nội địa với gần 100 triệu dân, là dư địa quan trọng để doanh nghiệp ổn định sản xuất, đa dạng hóa kênh tiêu thụ và xây dựng thương hiệu Việt Nam vững mạnh.

Ký kết giữa các hệ thống siêu thị và doanh nghiệp thủy sản (Ảnh: Lê Thanh)
Ký kết giữa các hệ thống siêu thị và doanh nghiệp thủy sản (Ảnh: Lê Thanh)

Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 10 tỷ USD, tăng 12% so với năm 2023, vượt 106% kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, ngành thủy sản cần chuyển hướng chiến lược, trong đó thị trường nội địa trở thành ‘bệ đỡ’ quan trọng. Với đóng góp 4-5% GDP và tạo việc làm cho 3-4 triệu lao động, ngành thủy sản có tiềm năng lớn nhưng mức tiêu thụ nội địa hiện chỉ đạt 40 kg/người/năm, thấp hơn đáng kể so với 60-70 kg ở các quốc gia như Nhật Bản hay Hàn Quốc.

Hội nghị đã thảo luận về các thách thức và cơ hội trong phân phối thủy sản nội địa. Hiện nay, chỉ 20-30% thủy sản nội địa được phân phối qua các kênh bán lẻ hiện đại, trong khi 60-70% sản phẩm tại siêu thị là hàng nhập khẩu. Ông Linh kêu gọi các doanh nghiệp sản xuất và phân phối hợp tác chặt chẽ để đưa thủy sản Việt Nam chất lượng cao, giá cả cạnh tranh đến tay người tiêu dùng.

Các doanh nghiệp đã đề xuất tăng cường hỗ trợ từ Nhà nước trong xây dựng hạ tầng chợ đầu mối chuyên biệt, giảm chi phí vận chuyển và bảo quản, đồng thời đẩy mạnh truyền thông để nâng cao nhận thức người tiêu dùng. Việc nghiên cứu thị hiếu, đa dạng hóa sản phẩm và tối ưu hóa chuỗi cung ứng cũng được xem là yếu tố then chốt để tiếp cận tầng lớp trung lưu đang gia tăng.

Ký kết giữa các hệ thống siêu thị và doanh nghiệp thủy sản (Ảnh: Lê Thanh)
Ký kết giữa các hệ thống siêu thị và doanh nghiệp thủy sản (Ảnh: Lê Thanh)

Trong khuôn khổ hội nghị, 16 biên bản ghi nhớ hợp tác đã được ký kết giữa các hệ thống siêu thị và doanh nghiệp thủy sản, đánh dấu bước tiến cụ thể trong việc đưa sản phẩm thủy sản nội địa chiếm lĩnh thị trường trong nước. Các thỏa thuận này tập trung vào mở rộng kênh phân phối, đảm bảo chất lượng và giá cả cạnh tranh, hướng tới phục vụ tốt hơn nhu cầu tiêu dùng.

Với sự đồng hành của các cơ quan quản lý, hiệp hội và doanh nghiệp, thị trường nội địa không chỉ là ‘pháo đài’ chống đỡ trước biến động toàn cầu mà còn là động lực để ngành thủy sản Việt Nam khẳng định vị thế, xây dựng thương hiệu quốc gia và phát triển bền vững trong dài hạn.

Ngành thủy sản Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong 6 tháng đầu năm 2025. Theo ước tính từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt khoảng 5,11 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, tôm và cá tra là hai mặt hàng chủ lực, ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng.

]]>
Hàng giả, hàng nhái lấn át thị trường: Thủ tướng ra chỉ đạo khẩn https://kinhtethitruong.net/hang-gia-hang-nhai-lan-at-thi-truong-thu-tuong-ra-chi-dao-khan/ Wed, 17 Sep 2025 02:04:43 +0000 https://kinhtethitruong.net/hang-gia-hang-nhai-lan-at-thi-truong-thu-tuong-ra-chi-dao-khan/

Thị trường nội địa Việt Nam đang phải đối mặt với một thách thức lớn khi tình trạng hàng giả, hàng nhái và hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ đang ngày càng phổ biến. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn của người tiêu dùng mà còn gây ra sự bất công cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Các doanh nghiệp chân chính đang phải cạnh tranh không công bằng với những hàng hóa không rõ nguồn gốc, làm giảm niềm tin của người tiêu dùng vào thị trường và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Bên cạnh các loại hoa trồng trong nước thì hoa ngoại xuất hiện rất nhiều tại các chợ truyền thống. (Ảnh: Vietnam+)
Bên cạnh các loại hoa trồng trong nước thì hoa ngoại xuất hiện rất nhiều tại các chợ truyền thống. (Ảnh: Vietnam+)
Cuộc chiến vì sự sống: Chống hàng giả “lộng hành” để bảo vệ sức khỏe Nhân dân
Cuộc chiến vì sự sống: Chống hàng giả “lộng hành” để bảo vệ sức khỏe Nhân dân

Để giải quyết vấn đề này, hóa đơn điện tử đã được coi là một công cụ quan trọng giúp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và xây dựng thị trường nội địa minh bạch, công bằng. Hóa đơn điện tử giúp theo dõi và kiểm soát việc bán hàng, ngăn chặn việc phát hành hóa đơn giả, và tạo điều kiện cho việc quản lý thuế hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc triển khai hóa đơn điện tử trên toàn quốc vẫn còn nhiều khó khăn do thói quen tiêu dùng của người dân và sự lách luật của các doanh nghiệp.

Bài 3: "Vòi bạch tuộc” hàng giả: Tội ác đang âm thầm “hút máu” người Việt
Bài 3: “Vòi bạch tuộc” hàng giả: Tội ác đang âm thầm “hút máu” người Việt

(Ảnh: Vietnam+)
(Ảnh: Vietnam+)
Bài 4: Sản phẩm giả tràn lan: Doanh nghiệp gian dối lợi dụng kẽ hở pháp luật thế nào?
Bài 4: Sản phẩm giả tràn lan: Doanh nghiệp gian dối lợi dụng kẽ hở pháp luật thế nào?

Người tiêu dùng Việt Nam vẫn còn thói quen mua hàng tại các chợ truyền thống hoặc từ các tiểu thương trên mạng xã hội, nơi việc sử dụng hóa đơn điện tử chưa phổ biến. Điều này tạo ra khó khăn cho việc quản lý và kiểm soát nguồn gốc hàng hóa. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp cố tình lách luật bằng cách không phát hành hóa đơn điện tử hoặc sử dụng hóa đơn giả để trốn thuế và che giấu nguồn gốc hàng hóa.

Thờ ơ với hóa đơn điện tử: Tự đánh mất quyền lợi và làm thất thu thuế
Thờ ơ với hóa đơn điện tử: Tự đánh mất quyền lợi và làm thất thu thuế
Việc yêu cầu hóa đơn là một hành động đơn giản nhưng mang lại hiệu quả to lớn.(Vietnam+)
Việc yêu cầu hóa đơn là một hành động đơn giản nhưng mang lại hiệu quả to lớn.(Vietnam+)

Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách hỗ trợ để phát triển doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm việc giảm thuế, cung cấp vốn vay ưu đãi và hỗ trợ kỹ thuật. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn lo lắng về việc tìm kiếm thị phần trên ‘sân nhà’ khi phải cạnh tranh với hàng giả và hàng nhái. Việc mất niềm tin từ người tiêu dùng do hàng kém chất lượng cũng là một thách thức lớn cho các doanh nghiệp trong nước.

Bài 2: Niềm tin bị “đầu độc”: Hàng giả len lỏi từ nhà thuốc tới bệnh viện
Bài 2: Niềm tin bị “đầu độc”: Hàng giả len lỏi từ nhà thuốc tới bệnh viện

Để đẩy mạnh việc triển khai hóa đơn điện tử và bảo vệ thị trường nội địa, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Chính phủ cần tăng cường kiểm tra và xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền về lợi ích của hóa đơn điện tử. Doanh nghiệp cần tích cực ứng dụng công nghệ để phát hành hóa đơn điện tử và cung cấp thông tin rõ ràng về nguồn gốc hàng hóa cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng cũng cần nâng cao nhận thức về quyền lợi và trách nhiệm của mình khi mua hàng, ưu tiên chọn mua hàng hóa có nguồn gốc rõ ràng và yêu cầu hóa đơn điện tử khi mua hàng.

Nguồn: Cục Thống kê
Nguồn: Cục Thống kê

Chỉ khi có sự chung tay của tất cả các bên, thị trường nội địa Việt Nam mới có thể trở nên minh bạch và công bằng, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và giúp các doanh nghiệp trong nước phát triển bền vững.

Cả người bán hàng và người mua đều "ngạc nhiên" khi được hỏi đến việc cung cấp và yêu cầu hóa đơn bán hàng trong hoạt động bán lẻ. (Ảnh: Vietnam+)
Cả người bán hàng và người mua đều “ngạc nhiên” khi được hỏi đến việc cung cấp và yêu cầu hóa đơn bán hàng trong hoạt động bán lẻ. (Ảnh: Vietnam+)
]]>
Doanh nghiệp Việt Nam đối mặt khó khăn nhưng có cơ hội phục hồi trong nửa cuối năm https://kinhtethitruong.net/doanh-nghiep-viet-nam-doi-mat-kho-khan-nhung-co-co-hoi-phuc-hoi-trong-nua-cuoi-nam/ Thu, 24 Jul 2025 08:36:13 +0000 https://kinhtethitruong.net/doanh-nghiep-viet-nam-doi-mat-kho-khan-nhung-co-co-hoi-phuc-hoi-trong-nua-cuoi-nam/

Nửa đầu năm 2025, nền kinh tế toàn cầu đã trải qua nhiều biến động và bất ổn. Mặc dù số liệu từ Cục Thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong 6 tháng đầu năm đạt 219,83 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước, và tăng trưởng GDP đạt mức cao nhất trong 15 năm qua là 7,52%, nhiều doanh nghiệp vẫn tỏ ra e dè về triển vọng kinh tế.

Thông tin này được chia sẻ tại hội thảo ‘Dự báo kinh tế 6 tháng cuối năm 2025 – Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp’ do Tạp chí Doanh Nhân Sài Gòn và Viện Sáng kiến Việt Nam đồng tổ chức ngày 18/7. Ông Lê Phụng Hào, Chủ tịch Công ty Global AAA Consulting, cho biết trong 10 doanh nghiệp ông quan sát, có đến 6-7 doanh nghiệp tỏ ra e dè và tiêu cực trước bối cảnh kinh doanh hiện nay.

Ông Hào phân tích rằng mặc dù con số xuất khẩu 6 tháng đầu năm có tăng, nhưng chủ yếu là do các doanh nghiệp tranh thủ thời điểm chính sách thuế quan của Mỹ chưa có hiệu lực. Hiện nay, mức thuế bình quân khoảng 20%, thậm chí lên đến 40% với hàng hóa trung chuyển, tạo ra rào cản lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là sang Mỹ – thị trường xuất khẩu lớn nhất và đóng góp tỷ trọng cao trong GDP.

Ông Đinh Hồng Kỳ, Chủ tịch HĐQT CTCP Secoin, cũng đồng tình rằng nhiều doanh nghiệp đang dần hụt hơi. Không ít doanh nghiệp đã mất đơn hàng do rào cản thuế quan. Thêm vào đó, chính sách từ Mỹ và xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc, châu Á của các nền kinh tế lớn như Mỹ và EU khiến môi trường kinh doanh thêm bất ổn.

Về động lực trong nước là đầu tư công, mặc dù Chính phủ thực hiện nhiều giải pháp quyết liệt, nhưng tiến độ giải ngân vẫn rất chậm. Trong hơn 5 tháng đầu năm, TP.HCM mới giải ngân được hơn 10% vốn đầu tư công. Nhiều dự án hạ tầng giao thông, kênh rạch, trường học, bệnh viện tại TP.HCM vẫn đang gặp vướng mắc pháp lý.

อย่างไรก็ตาม, nhìn về 6 tháng còn lại của năm, ông Đinh Hồng Kỳ cho rằng doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội phát triển khi thị trường trong nước tiếp tục ghi nhận những điểm sáng. Đặc biệt, đầu tư công đang được Chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ, trong đó có việc cải thiện hạ tầng, nhất là khu vực phía Nam.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đang từng bước tái cấu trúc mô hình hoạt động, chuyển từ tư duy tuyến tính sang tư duy hệ sinh thái mở, giúp giảm phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Các xu hướng như chuyển đổi số và ứng dụng AI cũng mở ra không gian tối ưu trong vận hành, phát triển sản phẩm mới và tiếp cận thị trường theo mô hình mới.

Doanh nghiệp vẫn kỳ vọng có thêm các chính sách hỗ trợ dài hạn từ Chính phủ, đặc biệt là tinh thần vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị nhằm hiện thực hóa các mục tiêu kinh tế chung.

Nhìn trong một bức tranh tổng thể toàn bộ khu vực doanh nghiệp, bà Trịnh Thị Hương, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Tài chính), vẫn giữ quan điểm tích cực. Theo bà, khi doanh nghiệp đã nhận diện rõ các thách thức thì cũng đồng nghĩa với việc có sự chủ động hơn trong xây dựng kịch bản ứng phó, từ đó giảm rủi ro và nâng cao khả năng nắm bắt cơ hội.

Trong kịch bản tăng trưởng GDP năm 2025 đạt 8,3-8,5% mà Thủ tướng Chính phủ mới đưa ra, khu vực tư nhân được kỳ vọng sẽ trở thành một động lực tăng trưởng mới, bên cạnh các trụ cột truyền thống. Dự kiến trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 101 tỷ USD cho 6 tháng cuối năm, khu vực tư nhân có thể đóng góp tới 60 tỷ USD, tương đương hơn 50%. Đây là con số rất lớn, phản ánh rõ kỳ vọng vào khu vực doanh nghiệp tư nhân.

]]>
“Tung hoành” thị trường Âu -Mỹ, cá tra vẫn khó “bơi” về thị trường trong nước https://kinhtethitruong.net/tung-hoanh-thi-truong-au-my-ca-tra-van-kho-boi-ve-thi-truong-trong-nuoc/ Fri, 23 Dec 2022 03:13:34 +0000 https://www.kinhtethitruong.net/?p=1371

Trong khi xuất khẩu cá tra đem về 2,4 tỷ USD trong năm 2022, thì lượng cá tra tiêu thụ tại thị trường nội địa vẫn không đáng kể. Nếu tháo gỡ được những điểm nghẽn này thì ngành hàng cá tra sẽ có thêm một kênh tiêu thụ mới, tiềm năng…

Tại Hội thảo “thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị cá tra” diễn ra trong khuôn khổ Lễ hội cá tra lần thứ I diễn ra tại TP. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, nhiều đại biểu cho rằng trong thời gian qua ngành hàng cá tra gần như phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường xuất khẩu mà quên mất thị trường nội địa với 100 triệu người tiêu dùng. Do phụ thuộc vào thị trường bên ngoài nên mỗi khi thị trường quốc tế diễn biến xấu thì mặt hàng cá tra ngay lập tức bị ảnh hưởng nặng nề.

KHÓ TIÊU THỤ NỘI ĐỊA, VÌ ĐÂU?

Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho biết giá trị tiêu thụ sản phẩm thủy sản của thị trường nội địa mỗi năm lên đến hơn 22.000 tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD).

Mức tiêu thụ thủy hải sản bình quân của người Việt khoảng 35 kg/năm và dự báo đạt 44 kg/người/năm từ năm 2020 trở đi. Thế nhưng, khối lượng và giá trị cá tra tiêu thụ ở thị trường trong nước lại không đáng kể, ước tính chỉ vài trăm tỷ đồng.

Theo ông Toản, chương trình quảng bá, tiêu thụ cá tra và sản phẩm cá tra tại thị trường miền Bắc đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai từ năm 2017. Tuy nhiên, cho đến nay người tiêu dùng miền Bắc vẫn chưa mặn mà tiêu thụ sản phẩm này. Có quá nhiều nguyên nhân khiến cá tra vẫn “hụt hơi” tại thị trường nội địa.

 

“Sản phẩm cá tra không chỉ có cá tra phi lê, cắt khúc hay nguyên con mà đang có khoảng 80 sản phẩm chế biến giá trị gia tăng cao như: cá tra giả lươn, cá tra tẩm bột, xúc xích… Đây là tiền đề để cá tra “bơi” vào thị trường nội địa”.

Ông Nguyễn Văn Kịch, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Cafatex.

TS. Huỳnh Văn Hiền, Khoa thủy sản Trường ĐH Cần Thơ, cho hay qua khảo sát cho thấy chỉ có 3,75% sản lượng cá tra nuôi được bán cho thương lái để phục vụ thị trường nội địa; 96,25% sản lượng cá tra được bán cho cá nhà máy chế biến. Sau khi cá tra được chế biến thì chỉ có 2,25% sản phẩm được bán ở thị trường nội địa, sản lượng còn lại phục vụ cho thị trường xuất khẩu.

Như vậy, lượng cá tra tiêu thụ nội địa (bao gồm cả cá tươi, đông lạnh, và chế biến) mới chỉ chiếm hơn 6% trong tổng sản lượng cá tra thu hoạch của cả nước.

Lý giải về vấn đề này, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, cho rằng người tiêu dùng tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long dễ dàng tiếp cận với nhiều loài thủy sản khác nhưng sức tiêu thụ cá tra còn ít. Trong khi tại thị trường miền Bắc, tuy rất chuộng con cá tra nhưng cũng không thích ăn sản phẩm đông lạnh, điều này rất khó cho kênh phân phối vì đi xa thì không còn cách nào khác là phải cấp đông.

Việc chế biến thành các sản phẩm ăn liền cũng gặp khó vì khẩu vị của từng vùng, miền khác nhau. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp chế biến cá tra vẫn khó khăn trong việc xây dựng được kênh phân phối tại thị trường trong nước, bởi lâu nay các doanh nghiệp mới chú trọng thị trường xuất khẩu.

Mục tiêu của ngành cá tra là chiếm 10 – 15% thị phần tiêu thụ nội địa trên tổng sản lượng. Nếu tháo gỡ được những điểm nghẽn này thì ngành hàng cá tra sẽ có thêm một kênh tiêu thụ mới, tiềm năng.

Ông Nguyễn Văn Kịch, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Cafatex, cho biết lý do mà thời gian qua mặt hàng cá tra được tiêu thụ tại thì trường nội địa còn ít là do tập quán ẩm thực của người Việt Nam thích sử dụng sản phẩm tươi sống, chưa ưa chuộng các sản phẩm chế biến, đông lạnh.

Tuy nhiên, theo ông Kịch với xu thế phát triển, người tiêu dùng quen tác phong công nghiệp, có ít thời gian vào bếp thì xu hướng thích sử dụng sản phẩm đã chế biến và sản phẩm thịt, cá làm sạch đông lạnh để dễ chế biến. Cùng với đó là việc phải trải qua nhiều tháng thực hiện cách ly xã hội lúc dịch Covid-19 bùng phát, người tiêu dùng cũng đã quen với các sản phẩm qua chế biến và sản phẩm đông lạnh, đây chính là điều kiện thuận lợi để ngành hàng cá tra đẩy mạnh tiêu thụ nội địa trong thời gian tới.

MỞ “ĐƯỜNG BƠI” CHO CÁ TRA TẠI THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA

Ông Nguyễn Trọng Tuấn, Giám đốc điều hành chuỗi bán lẻ WinMart thuộc Tập đoàn Masan, nhận định cùng với thành tích xuất khẩu, sẽ tuyệt vời hơn nếu như sản phẩm cá tra tăng cường tiêu thụ tại thị trường trong nước trong thời gian tới.

Ông Tuấn cho biết năm 2020, sản lượng cá tra tiêu thụ trên kênh bán lẻ Winmart là 250 tấn, đến năm 2021 là trên 300 tấn và năm 2022 dự kiến khoảng trên 400 tấn. Mặc dù sản lượng tiêu thụ này còn khiêm tốn so với nhu cầu cũng như khả năng đáp ứng và chinh phục của sản phẩm cá tra đối với thị trường nội địa, tuy nhiên, trong quá trình vận hành, chúng tôi cũng nhận thấy rõ thị hiếu tiêu dùng cũng như tiềm năng, lợi thế phát triển mạnh hơn nữa sản phẩm chất lượng và hàm lượng dinh dưỡng cao này.

Ông Nguyễn Trọng Tuấn: "Cùng với thành tích xuất khẩu, sẽ tuyệt vời hơn nếu như sản phẩm cá tra tăng cường tiêu thụ tại thị trường trong nước".
Ông Nguyễn Trọng Tuấn: “Cùng với thành tích xuất khẩu, sẽ tuyệt vời hơn
nếu như sản phẩm cá tra tăng cường tiêu thụ tại thị trường trong nước”.

Mục tiêu của ngành cá tra đặt ra là chiếm khoảng 15% thị phần tiêu thụ nội địa trên tổng sản lượng. Do đó, việc hoạch định chiến lược đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, chinh phục người tiêu dùng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để có cách tiếp cận cũng như chế biến các sản phẩm cá tra phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng Việt. Điều này sẽ giúp tăng sản lượng tiêu thụ cũng như hình thành những nhu cầu và thói quen tiêu dùng mới đối với sản phẩm cá tra nói riêng và thủy sản chất lượng cao nói chung.

 

“Cần tiếp tục phát triển quảng bá, giới thiệu sản phẩm cá tra cho thị trường nội địa, đặc biệt quan tâm kết nối doanh nghiệp sản xuất, chế biến cá tra với bếp ăn tập thể trong khu công nghiệp, trường học nhằm cung cấp bữa ăn đảm bảo an toàn thực phẩm với chi phí hợp lý, góp phần giảm áp lực cho xuất khẩu”.

Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 

Từ góc tiếp cận và vai trò của kênh phân phối và tiêu thụ sản phẩm trực tiếp tới bếp ăn của người tiêu dùng, chuỗi bán lẻ WinMart mạnh dạn đề xuất một số giải pháp tăng cường kết nối thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cá tra.

Thứ nhất,cần thiết kế chính sách phù hợp để tập hợp các nguồn lực phát triển chuỗi giá trị cá tra, từ quy trình giống, nuôi, chế biến đến các kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm cá tra, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, đảm bảo tính minh bạch, quyền tiếp cận và chứng thực chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng.

Thứ hai, tăng cường liên kết giữa đơn vị sản xuất, hợp tác xã, làng nghề với các đơn vị phân phối bán lẻ nhằm phát triển chuỗi cung ứng trong nước hiệu quả, kinh tế, đặt yếu tố đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng ở vị trí trung tâm của hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, tiếp theo lễ hội cá tra thường niên hoặc định kỳ mang tính quy mô khu vực và địa phương như hôm nay, các nhà sản xuất và chuỗi bán lẻ WinMart nên thường xuyên tổ chức các sự kiện tại điểm bán (bao gồm cả trực tuyến và trực tiếp) nhằm tạo điểm thu hút và tác động ấn tượng tới người tiêu dùng, hình thành “điểm nhớ” trong thói quen mua sắm cũng như thay đổi cấu trúc dinh dưỡng theo hướng tốt hơn mỗi ngày của các bếp ăn gia đình Việt.

Thứ tư, nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu và thói quen của người tiêu dùng Việt trong tiêu dùng sản phẩm thủy sản nói chung và sản phẩm cá tra nói riêng nhằm thiết kế các món ăn chế biến từ cá tra phù hợp và hiệu quả.

]]>